tiếp chương IXQuên mất sụ hiện diện của Lauren trong giây lát, anh nói với bạn về cô, về những cách nhìn của cô, về đời cô, về những nỗi nghi ngại của cô, về sức mạnh của cô, về vị ngọt ngào của những khoảnh khắc cùng cô chia sẻ, về những lời công kích lẫn nhau của họ. Paul ngắt lời anh.
- Nếu quả thực cô ta đang ở đây thì mày toi rồi con ạ.
- Tại sao ?
- Tại vì mày vừa tuôn ra một lời tỏ tình thực sự.
Paul quay ra nhìn bạn một cách chăm chú. Rồi anh tiếp tục với một nụ cười thỏa mãn:
- Ít ra thì mày cũng tin câu chuyện của mày.
- Tất nhiên là tao tin chứ, sao mày lại nói thế ?
- Tại vì mày vừa mới đỏ mặt lên. Tao chưa bao giờ thấy mày đỏ mặt cả.
Rồi anh nói tiếp, vẻ huênh hoang: “Thưa cô gái mà chúng tôi sắp đánh cắp cơ thể, nếu quả thực là cô ở đây, tôi muốn nói với cô rằng thằng bạn tôi nó bám dai lắm đấy, trước kia tôi chưa bao giờ thấy nó như vậy cả !”
- Im mồm và lái xe đi.
- Tao sẽ tin vào câu chuyện của mày vì mày là bạn tao và mày không cho tao được lựa chọn. Nếu tình bạn không phải là cùng nhau chia sẻ mọi chuyện điên rồ thì thử hỏi nó là cái gì ? Thôi, bệnh viện của mày đây rồi.
- Abott và Costello !- Lauren nói, phá vỡ sự im lặng của mình, vẻ mặt tươi rói.
- Tao lái xe đi đâu bây giờ ?
- Đi về phía xe cấp cứu và đỗ xe. Bật đèn xoay lên.
Cả ba xuống xe và đi về phía thường trực, nơi có một cô y tá đang chào họ.
- Các anh mang gì đến cho chúng tôi đấy ?- cô nói
- Không có gì cả, chúng tôi đến mang một người đi- Arthur trả lời bằng một giọgn đầy quyền hành.
- Người nào vậy ?
Anh tự giới thiệu là bác sĩ Bronswick, anh đến để nhận về điều trị một bệnh nhân tên là Lauren Kline, cần phải chuyển viện tối nay. Ngay lập tức cô ý tá đòi xem những giấy tờ chuyển viện. Arthur chìa ra cho cô một tập giấy tờ. Cô làm vẻ mặt khó đăm đăm, sao họ lại đến vào lúc đổi ca như thế này cơ chứ! Phải mất nửa tiếng mới xong được chuyện này, mà năm phút nữa là cô hết phiên trực. Arthur xin lỗi, trước đó ở chỗ anh có nhiều bệnh nhân quá. “Chỗ tôi cũng vậy, tôi rất tiếc”, cô y tá nói tiếp. Cô chỉ cho họ phòng 505 ở tầng năm. Cô sẽ kí những giấy tờ của họ, cô sẽ về trước, để họ lại đây với xe cứu thương của họ, nhưng cô sẽ báo cho người trực ca sau biết. đây thực không phải là lúc làm việc chuyển viện ! Arthur không thể nén được câu trả lời rằng không khi nào có thể coi là đúng lúc cả, “bao giờ cũng sớm quá hoặc muộn quá.” Cô y tá đành lòng chỉ đường cho họ.
- Tôi sẽ đi lấy băng ca – Paul nói để chấm dứt cuộc đôi co. – Tôi sẽ lên kia theo ông, thưa bác sĩ !
Cô y tá đề nghị được giúp họ với vẻ chẳng lấy gì làm mặn mà. Arthur khước từ sự trợ lực của cô và yêuc ầu cô lấy hồ sơ của Lauren ra và để vào xe cứu thương cùng với những giấy tờ khác.
- Hồ sơ sẽ để lại đây, nó sẽ được chuyển qua đường bưu điện, anh cần phải biết điều đó chứ- cô nói
Đột nhiên cô có vẻ do dự.
- Tôi biết, thưa cô,- Arthur nhanh nhẹn trả lời – tôi chỉ nói về những kết quả xét nghiệm cuối cùng của bệnh nhân thôi, những hằng số, lượng hồng cầu, bạch cầu, kiểm tra khí trong máu, NFS(công thức máu), thể tích huyết cầu.
- Anh xoay xở tài quá,- Lauren nói thầm- anh học tất cả những thứ ấy ở đâu ?
- Anh xem ti vi- Arthur thì thào
Anh có thể xem những số liệu này ở trong phòng bệnh nhân, cô y tá ngỏ ý đưa anh lên đó. Arthur cám ơn cô và xin cô cứ kết thúc ca trực như giờ đã định, không có cô anh cũng xoay xở được. Hôm nay là chủ nhật, cô đáng được nghỉ ngơi. Paul vừa trở alị với chiếc băng ca bèn túm lấy tay ông bạn chí cốt của mình và nhanh nhẹn kéo bạn vào hành lang. Thang máy đưa cả ba người lên tầng năm. Khi cánh cửa thang máy vừa mở ra, Arthur quay sang nói với Lauren:
- Cho đến giờ thì mọi sự đều tốt đẹp.
- Đúng vậy !- Paul và Lauren đồng thanh trả lời
- Mày nói với tao hả ?- Paul hỏi
- Nói với cả hai người.
Từ một căn phòng có một sinh viên ngoại trú trẻ măng lao vọt ra. Chạy đến chỗ họ, anh ta dừng phắt lại, nhìn chiếc áo blu của Arthur và túm lấy vai anh “ Anh là bác sĩ à ?” Arthur sửng sốt.
- Không phải, à mà đúng, đúng vậy, tại sao anh lại hỏi thế ?
- Xin anh theo tôi, tôi có một vấn đề ở phòng 508, ơn Chúa vì anh đến đúng lúc thế này !
Chàng sinh viên y khoa chạy về phía căn phòng mà anh ta chạy ra lúc nãy.
- Ta phải làm gì bây giờ ?- Arthur hoảng hốt hỏi.
- Mày hỏi tao đấy à ?- Paul đáp lại, cũng có vẻ hết hồn như vậy.
- Không, tao hỏi Lauren !
- Ta đi thôi, không còn cách nào khác – Arthur cao giọng nhắc lại.
- Thế là thế nào, ta đi thôi à? Mày không phải là bác sĩ, có lẽ mày nên chấm dứt trò mê sảng của mày trước khi làm chết người.
- Cô ấy sẽ giúp chúng ta.
- A, giá mà cô ấy giúp được!- Paul vừa nói vừa giơ hai tay lên trời.- Tại sao lại là tôi? Tại sao lại là tôi?
Cả ba người đi vào phòng 508. Chàng sinh viên ngoại trú đang ở bên đầu giường bệnh nhân, một y tá đang chờ anh ta, anh ta hốt hoảng nói với Arthur:
- Ông ta tự nhiên bị loạn nhịp tim, đây là một bệnh nhân đái đường nặng, tôi không làm sao cho ông ta ổn định lại được, tôi mới đang học năm thứ ba thôi.
- Thế thì chẳng lợi lộc gì cho ông ta cả- Paul nói
Lauren rỉ tai Arthur:
- Xé băng giấy cahỵ từ máy điện tim ra, và đọc cái giấy ấy sao cho em cũng có thể đọc được.
- Bật đèn trong phòng lên cho tôi- Arthur nói bằng một giọng uy quyền.
Anh đi sang phía bên kia giường và giật một phát để xé băng điện tâm đồ. Anh mở rộng băng giấy ra và quay lại nói thầm: “Thế này thì em có nhìn thấy không?”
- Đó là loạn nhịp tâm thất, cậu này thật vô tích sự !
Paul lấy tay vuốt lên trán, dụi dụi mắt.
- Tôi cũng thấy rõ đó là loạn nhịp tâm thất, thưa bác sĩ, vậy ta phải làm gì ?
- Không, anh không thấy gì hết, anh thật vô tích sự! Ta phải làm gì à ?- Arthur nói.
- Hỏi xem anh ta đã tiêm thuốc gì,- Lauren nói
- Anh đã tiêm thuốc gì ?
- Chưa có gì cả !
Cô y tá nói bằng một giọng coi thường, cho thấy rằng anh chàng sinh viên này đã làm cô ngao ngán đến mức độ nào.
- Chúng tôi đang ở trong tình trạng hoảng hốt, thưa bác sĩ !
- Anh thật vô tích sự!- Arthur nhắc lại.- Nào vậy ta phải làm gì ?
- Bố khỉ, ta không cần lên lớp cho anh ta, vì ông kia đang tím hết cả người rồi, ông bạn ơi, à quên, thưa bác sĩ!Saint-Quentin, ta sẽ đi thẳng đến Saint-Quentin (nhà tù lớn ở California)!- Paul giậm chân.
- Bình tĩnh nào ông ơi !- Arthur nói với Paul, rồi anh quay về phía cô y tá- Cô thứ lỗi cho anh ta, anh ta là người mới, nhưng đó là nhân viên tải thương duy nhất còn rảnh việc.
- Tiêm 2 miligram nephrine, rồi đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm, cái này sẽ phức tạp đấy, anh yêu!- Lauren nói
- Tiêm 2 miligram nephrine- Arthur thốt lên.
- Đã đến lúc rồi ! Tôi đã chuẩn bị sẵn thuốc thưa bác sĩ,- cô y tá nói,- tôi chỉ đợi có một người nhận trách nhiệm vào mình được thôi.
- Sau đó thì đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm- anh tuyên bố bằng một giọng nửa như hỏi, nửa như khẳng định.- Anh có biết đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm không?- anh hỏi chàng sinh viên.
- Bảo cô y tá làm việc đó, cô ta sẽ sướng điên lên được, vì các bác sĩ chả bao giờ để cho y tá làm việc này cả- Lauren nói trước khi anh sinh viên trả lời.
- Tôi chưa bao giờ làm cả- anh sinh viên nói.
- Cô y tá, cô sẽ đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm !
- Không đâu, bác sĩ cứ làm thôi, tôi thích làm lắm nhưng ta không có thời gian, tôi sẽ chuẩn bị cho bác sĩ, dù sao cũng cám ơn bác sĩ về sự tin cậy, tôi rất cảm kích điều đó.
Cô y tá đi ra một góc phòng để chuẩn bị kim tiêm và ống.
- Làm gì bây giờ ?- Arthur hoảng hốt hạ giọng hỏi.
- Bọn mình đi khỏi đây,- Paul trả lời- mày sẽ không đặt đường truyền ở đâu hết, mạch trung tâm cũng không mà mạch ngoài cũng không, ta cắm cổ chạy cuốn xéo khỏi đây thôi ông bạn ơi!
Lauren tiếp tục:
- Anh ra đứng trước bệnh nhân, anh nhắm vào chỗ dưới xương ức hai đốt ngón tay, anh biết xương ức là cái gì chứ ! Em sẽ hướng dẫn anh nếu anh không tìm đúng chỗ, anh đặt mũi kim nghiêng 15 độ, và anh ấn kim từ từ nhưng dứt khoát. Nếu anh thành công, một chất lỏng màu trắng đục sẽ chảy ra, nếu anh làm hỏng thì sẽ chảy máu. Và anh cầu nguyện đi để có được vận may của một người tập sự vì nếu không thì khốn thật đấy, đối với cả bọn mình lẫn cái ông đang nằm kia.
- Anh không làm được đâu! - anh thì thào.
- Anh không còn cách nào khác và ông ta cũng không, ông ta sẽ chết mất nếu anh không làm,
- Có phải em vừa gọi anh là anh yêu không hay là anh đang mơ đấy ?
Lauren mỉm cười: “ Anh làm đi và hít một hơi thật sâu trước khi ấn mũi kim nhé.” Cô y tá quay lại và đưa đường truyền cho Arthur. “ Cầm vào cái đầu bằng nhựa ấy, chúc anh may mắn!” Arthur cầm kim như Lauren chỉ dẫn. Cô y tá nhìn anh chăm chú. “Tốt lắm,- Lauren thì thầm – nghiêng ít hơn một chút, bây giờ thì ấn một nhát đi”. Mũi kim ngập vào ngực người bệnh. “Dừng lại đi, mở cái vòi nhỏ ở bên cạnh ống.” Một chất lỏng đùng đục bắt đầu chảy vào trong ống. “Hoan hô, anh làm với đôi tay bậc thầy đấy, - cô nói – anh đã cứu sống người này”.
Paul suýt hai lần lăn ra bất tỉnh, hạ giọng lặp đi lặp lại mãi một câu: “ Không thể tin được”. Được giải phóng khỏi chất lỏng đang đè lên nó, quả tim của bệnh nhân bị bệnh tiểu đường trở lại nhịp điệu bình thường. Cô y tá cám ơn Arthur. “Bây giờ tôi sẽ chịu trách nhiệm phần còn lại”, cô nói. Arthur và Paul chào cô rồi đi ra hành lang. Khi rời khỏi căn phòng, Paul không nhịn được thò lại đầu qua cánh cửa và nói vào mặt chàng sinh viên “Anh thật vô tích sự!”
Vừa đi Paul vừa nói với Arthur:
- Này, mày vừa làm cho tao sợ hết hồn!
- Cô ấy giúp tao đấy, cô ấy nhắc tao tất cả - anh thì thầm.
Paul lắc đầu: “ Tao sẽ tỉnh dậy và khi tao gọi điện cho mày để kể về cơn ác mộng mà tao đang thấy đây, mày sẽ cười, thậm chí không mày không thể tưởng tượng được là mày sẽ cười đến thế nào đâu và mày sẽ chế nhạo tao!”
- Lại đây, Paul, mình không có thời gian để mất đâu- Arthur nói.
Cả ba người bước vào phòng 505. Arthur bấm công tắc, và đèn nê-ông bắt đầu nhấp nháy. Họ đến bên giường bệnh.
- Giúp tao với – anh bảo Paul.
- Cô ta đấy à ?
- Không, đó là lão ở phòng bên cạnh đấy; tất nhiên là cô ấy chứ còn gì ! Kéo băng ca đến cạnh thành giường đi.
- Suốt đời mày chuyên làm việc này hay sao ?
- Được rồi, luồn tay vào dưới đầu gối cô ấy đi, và chú ý ống truyền nhé. Khi nào tao đếm đến 3 thì nâng cô ấy lên nhé. Một, hai ,ba !
Cơ thể Lauren được đặt lên băng ca có bánh xe lăn. Arthur đắp chăn lên người cô, tháo lọ đựng dung dịch truyền ra và lắp lại vào cái giá ở phía trên đầu cô.
- Kết thúc giai đoạn 1, bây giờ ta đi xuống nhanh nhưng không vội vã.
- Vâng, thưa bác sĩ – Paul đáp bằng một giọng bực bội.
- Cả 2 anh đều xoay xở rất tài, Lauren thì thầm
Họ quay ra thang máy. Từ cuối hành lang cô y tá gọi họ, Arthur chậm rãi quay lại:
- Có gì thế cô ?
- Bây giờ mọi việc đều ổn rồi, các anh cần giúp một tay không ?
- Không, ở đây mọi việc cũng ổn cả.
- Xin cám ơn một lần nữa.
- Có gì đâu.
Cửa thang máy mở ra và họ chui vào trong. Arthur và Paul cũng thở hắt ra.
- Ba cô siêu người mẫu, mười lăm ngày ở Hawaii, một chiếc Testa Rossa và một cái thuyền buồm!
- Mày nói cái gì đấy ?
- Tiền công của tao, tao đang tính với mày tiền công của tao tối nay.
Đại sảnh vắng tanh khi họ đi ra khỏi thang máy. Họ bước nhanh qua đó. Cơ thể Lauren được đặt ở phía sau của xe cứu thương. Rồi mỗi người ngồi vào chỗ của mình.
Trên ghế Arthur có những giấy tờ chuyển viện và một mảnh giấy kèm theo: “Đề nghị gọi điện cho tôi ngày mai, thiếu hai thông tin trong hồ sơ chuyển viện, Karen( 415) 72500 00 – máy 2145. T.B : Chúc tiếp tục may mắn.”
Xe cứu thương rời bệnh viện Memorial.
- Rút cục thì xoáy một người bệnh xem chừng khá dễ - Paul nói.
- Ấy là vì không có mấy người quan tâm đến điều đó.
- Tao rất hiểu họ. Bọn mình đi đâu?
- Đầu tiên về nhà tao rồi sẽ đi đến một nơi cũng đang bị hôn mê và cả ba chúng ta sẽ đánh thức nó dậy.
Xe cứu thương đi lên Market Street và rẽ vào Van Nees. Trong xe yên lặng.
Theo kê 1hoạch mà Arthur vạch ra, họ còn phải về nhà anh để chuyển cơ thể Lauren sang xe ôtô của anh. Trong khi Paul mang trả chiếc xe cứu thương mượn tạm về xưởng của ông bố dượng thì Arthur sẽ mang xuống tất cả những đồ đạc đã được chuẩn bị cho chuyến đi và cho thời gian lưu lại ở Carmel. Những đồ mua ở hiệu thuốc đã được đóng gói cẩn thận và để trong chiếc tủ lạnh to mác General Electric.
Đến trước gara, Paul bấm điều khiển từ xa để mở cửa, nhưng cánh cửa không hề nhúc nhích.
- Bao giờ sự việc cũng xảy ra như thế trong những truyện trinh thám rẻ tiền thì thằng ngồi bên lấy vẻ hùng hổ hơn và ít kiểu cách hơn rồi hỏi: “ Cái chết tiệt gì thế này?”. Đây, trong trường hợp ấy, thì là cái cửa gara nhà mày nó không chịu mở, và cái xe cứu thương lấy từ xưởng của ông bố dượng tao, với một cơ thể người ở bên trong, đỗ ngay trước khu nhà mày vào cái giờ mà tất cả hàng xóm của mày sẽ dẫn chó đi tè.
- Chết cha rồi !
- Thì tao cũng nói gần như vậy, Arthur.
- Đưa tao điều khiển từ xa !
Paul vừa chấp hành vừa nhún vai. Arthur cáu kỉnh ấn nút, chẳng ăn thua gì cả.
- Đã thế hắn lại coi mình là một thằng ngớ ngẩn nữa chứ.
- Hết phin rồi – Arthur nói.
- Chính là do pin, dĩ nhiên rồi, - Paul kết luận một cách châm chọc.- Tất cả các thiên tài đều bị tóm một cách như thế.
- Tao chạy đi kiếm pin đây, mày lượn một vòng quanh khu nhà đi.
- Mày có thể cầu nguyện để có một cục pin trong ngăn kéo của mày, thiên tài !
- Đừng trả lời và lên nhà đi- Lauren bảo.
Arthur xuống khỏi xe cứu thương và ba chân bốn cẳng chạy lên cầu thang, anh lao vào nhà, và bắt đầu bới tất cả các ngăn kéo. Chẳng thấy cục pin nào cả. Anh dốc ngăn kéo tủ tài liệu, ngăn kéo tủ đầu giường, các ngăn kéo trong bếp, trong lúc Paul đang lượn đến vòng thứ năm quanh khu nhà.
- Nếu mình không bị một đội tuần tra phát hiện, mình sẽ là một thằng cha bị cắm nhiều sừng nhất thành phố- Paul vừa lẩm bẩm vừa bắt đầu vòng thứ sáu đúng vào lúc anh gặp một chiếc xe cảnh sát. “ Không phải rồi, mình không bị cắm sừng, nhưng giá mà như thế lại còn hơn!”
Chiếc xe cảnh sát dừng lại ngang tầm anh, viên cảnh sát ra hiệu cho anh hạ cửa kính xuống, anh thi hành.
- Anh bị lạc à ?
- Không, tôi đợi một đồng nghiệp lên nhà lấy đồ rồi chúng tôi sẽ đưa Daisy đến xưởng.
- Daisy là ai? - Viên cảnh sát hỏi.
- Là xe cứu thương, đây là ngày cuối cùng của nó, nó đã hết thời rồi, mười năm rồi chúng tôi đi cùng nhau, cái xe này và tôi, chia tay không phải dễ, anh có hiểu không ? hàng đống kỉ niệm, cả một mảng đời.
Viên cảnh sát gật đầu. Anh ta hiểu, anh ta yêu cầu Paul đừng đi lòng vòng lâu quá. Làm vậy sẽ gây ra những cú điện thoai gọi đến trung tâm đấy. Dân ở khu này có tính tò mò và hay lo lắng. “ Tôi biết, tôi sống ở đây, thưa ông cảnh sát, tôi đón đồng nghiệp của tôi rồi chúng tôi đi. Chúc một đêm tốt lành!” Viên cảnh sát cũng chúc anh một đêm tốt lành và xe tuần tra đi xa dần. Trong xe, người lái xe cá cược với bạn đồng đội là Paul không đợi ai hết cả.
- Có lẽ anh ta không dứt khoát được để đưa cái xe cà khổ của mình đi. Mười năm lái xe đó rồi dù sao cũng buồn chứ.
- Ừ ! Nhưng mặt khác thì chính những người như anh ta lại đi biểu tình vì toà thị chính không cho họ tiền để thay những dụng cụ mới.
- Nhưng dù sao thì mười năm cũng tạo ra những mối ràng buộc.
- Những mối ràng buộc, đúng thế...
Trong nhà cũng rối tung rối mù gần như Arthur. Bất chợt anh đứng sững giữa phòng khách để tìm một ý tưởng có thể cứu được họ.
- Cái remote ti vi- Lauren thì thầm.
Sững sờ, anh quay về phía cô và lao về phía chiếc hộp đen. Anh giật phắt cái nắp đậy phía sau và tháo ra một cục pin vuông và lắp ngay vào cái điểu khiển của gara. Anh chạy ra cửa sổ và ấn nút.
Paul đang điên tiết bắt đầu vòng thứ 9 thì thấy cánh cửa mở ra. Anh vừa lao vọt vào vừa cẩu nguyện để cánh cửa đóng lại nhanh hơn là khi nó mở. “Đúng là tại pin thật rồi, sao mà nó ngu thế!”
Trong lúc đó, Arthur xuống cầu thang đi ra gara.
- Xong rồi chứ ?
- Đối với tao hay đối với mày bây giờ ? Tao sẽ moi ruột mày !
- Mày giúp tao thì tốt hơn, vẫn còn việc phải làm.
- Thì tao chỉ làm có mỗi cái việc giúp mày thôi chứ còn gì nữa đâu
Họ di chuyển cơ thể Lauren một cách hết sức cẩn thận. Họ đặt cô ngồi ở phía sau, lọ đựng dịch truyền được nhét vào giữa hai tay vịn ghế, và họ quấn người cô trong một cái chăn. Đầu cô dựa vào cánh cửa, từ bên ngoài nhìn vào tất cả đều có thề tưởng rằng cô đang ngủ.
- Tao có cảm giác đang trong một bộ phim của Tarantino( nhà điện ảnh Mỹ nổi tiếng với những cảnh bạo lực cảm giác mạnh trong phim của ông)- Paul càu nhàu- Mày biết đấy, một thằng vô lại đang tống khứ...
- Im đi ! Mày lại sắp nói một điều ngớ ngẩn.
- Tại sao, tụi mình không phải đang làm một trò ngớ ngẩn tối nay sao ? Thế mày sẽ đem trả xe cứu thương à ?
- Không phải vậy, đó là cô ấy đang ở ngay cạnh mày và mày sẽ nói những điều xúc phạm, có thế thôi.
Lauren đặt tay lên vai anh.
- Các anh đừng cãi nhau, cả hai anh đều có một ngày căng thẳng rồi – cô nói bằng một giọng xoa dịu.
- Đúng vậy, chúng ta tiếp tục thôi.
- Tao đúng khi không nói gì hết à ? – Paul làu bàu.
Arthur bảo:
- Đi đến xưởng của bố dượng mày đi, mười phút nữa tao sẽ qua đón mày, tao lên nhà lấy dụng cụ.
Paul trèo lên xe cứu thương, cửa gara lần này mở ra ngay không nhõng nhẽo gì nữa, và anh đi ra không nói một lời. Đến chỗ rẽ sang Union Street anh không nhìn thấy chiếc xe tuần tra lúc nãy vừa chất vấn anh.
- Để một chiếc xe đi qua đã rồi đi theo chiếc xe cứu thương này!- viên cảnh sát nói.
Xe cứu thương rẽ vào Van Nees, theo sau có chiếc xe số 627 của cảnh sát thành phố. Mười phút sau, khi xe cứu thương đi vào sân của xưởng sữa chữa, viên cảnh sát cho xe giảm tốc độ, và trở lại vòng tuần tra thường lệ của mình. Paul không bao giờ biết rằng mình đã bị theo dõi.
Mười lăm phút sau Arthur đến. Paul đi ra phố và trèo lên phía trước của chiếc xe Saab.
- Mày đi tham quan san Fransisco hay sao ?
- Tao đi từ từ là vì có cô ấy.
- Mày dự định đến đó vào lúc bình minh à ?
- Chính thế, và bây giờ thì mày thư giãn đi, Paul. Bọn mình đã gần như là thành công rồi. Mày vừa giúp tao một việc vô giá, tao biết thế; cái mà tao không biết , đó là phải nói điều ấy với mày như thế nào, và mày đã phải nhận những mạo hiểm, điều đó tao cũng biết.
- Thôi lái xe đi, tao ngấy những lời cám ơn lắm.
Xe ôtô ra khỏi thành phố theo con đường 280 phía nam. Rất nhanh, họ rẽ về phía Pacifica, trước khi đi vào đường số 1, con đường dọc theo bờ vách đá, dẫn đến vịnh Monterey, về phía Carmel, con đường mà lẽ ra Lauren phải đi một buổi sáng đầu hè năm ngoái, bên tay lái chiếc xe Triumph cũ kĩ của cô.
Phong cảnh thật đặc biệt. Những vách đá dường như sừng sững trong đêm, trông giống một mảnh đăng ten đen. Một vầng trăng khuyết làm nổi bật lên đường viền của con đường. Họ lái xe đi như vậy trong những tiếng hoà âm của bản concerto cho violin của Samuel Barber.
Arthur trao tay lái cho Paul, anh nhìn qua cửa sổ. Ở đoạn cuối của chuyến đi này có một sự thức dậy khác đợi anh. Sự thức dậy của nhiều kỉ niệm đã ngủ thiếp đi trong một thời gian thật dài...
Chương X
Arthur học kiến trúc ở trường đại học tổng hợp San Fransisco. Năm hai mươi lăm tuổi, anh bán căn hộ nhỏ mà mẹ anh để lại cho anh rồi lên đường sang Châu Âu, đến Paris, để học tiếp hai năm ở trường Camando. Anh ở trong một căn phòng nhỏ phố Marazine và đã trải qua hai năm đầy say mê. Sau đó anh đi học tiếp một năm ở Florence trước khi trở về California quê hương.
Bằng cấp đầy mình, anh vào hãng Miller, kiến trúc sư tạo mẫu nổi tiếng của thành phố, thực tập hai năm ở đó, làm việc bán thời gian ở Bảo tàng nghệ thuật hiện đại Moma. Chính ở đây anh đã gặp Paul, người hợp doanh tương lai của anh, người mà hai năm sau đã cùng anh lập một xưởng kiến trúc. Theo đà phát triển kinh tế của vùng, công ty cũng dần dần gây được thanh danh, thuê gần hai mươi người làm việc. Paul phụ trách các “phi vụ”, Arthur vẽ đồ gỗ, nhà cửa, đồ vật. Mỗi người một lĩnh vực và chưa bao giờ có một chút gợn giữa hai người bạn mà không ai và không điều gì có thể đẩy rời xa nhau nhiều hơn vài tiếng đồng hồ.
Nhiều điểm chung làm họ gắn bó với nhau. Quan niệm chung về tình bạn, về cách sống và một tuổi thơ đầy những cảm xúc có thể so sánh với nhau. Những thiếu thốn giống hệt nhau. Cũng như Paul, Arthur được mẹ nuôi dạy. Nếu như cha Paul đã bỏ rơi gia đình khi anh 5 tuổi và không bao giờ xuất hiện lại, thì Arthur được ba tuổi khi cha anh lên đường sang Châu Âu. “Máy bay của bố bay lên trời cao đến nỗi nó đã ở lại trên đó, gắn vào những vì sao” Cả hai đều lớn lên ở nông thôn. Cả hai đều đã nếm mùi trường nội trú. Họ đã tự mình nên người. Lilian đã chờ đợi lâu, sau đó đã để tang, ít ra bề ngoài là như vậy. Mười năm đầu tiên của đời mình, Arthur sống ở ngoại thành, bên bờ biển gần làng Carmel xinh đẹp, nơi mà Lili, Arthur gọi mẹ như thế, có một ngôi nhà to. Làm toàn bằng gỗ trắng, ngôi nhà chìa ra biển, trên phần đất cao của khu vườn kéo dài ra đến tận bãi tắm. Antoine, một người bạn cũ của Lili, sống ở căn nhà phụ trong địa phận này. Người nghệ sĩ không thành đạt đó đã được Lili đón tiếp, những người hàng xóm thì nói là “nhặt” về. Ông thực hiện cùngvới bà công việc căhm sóc bảo dưỡng khu vườn, hàng rào, và những mặt ngoài bằng gỗ của ngôi nhà mà hầu như năm nào cũng được sơn lại, và cả những cuộc nói chuyện dài tối tối. Là bạn, là người hùa theo, đối với Arthur ông là sự hiện diện nam tính mà vài năm trước đã biến mất khọi cuộc đời cậu bé. Arthur đi học những năm đầu tiên ở Monterey. Buổi sáng Antoine đưa anh đến trường, buổi chiều khoảng 4 giờ mẹ anh đến đón về. Đó là những năm quý giá trong cuộc đời anh. Mẹ anh cũng là bạn thân nhất của anh. Lili đã dạy anh tất cả những điều mà một trái tim có thể yêu. Đôi khi bà đánh thức anh dậy vào lúc sáng sớm chỉ để dạy anh ngắm nhìn mặt trời mọc, lắng nghe những âm thanh lúc một ngày mới bắt đầu. Bà chỉ cho anh biết các loại tinh dầu hoa. Từ hình vẽ một chiếc lá, bà dạy anh biết cách nhận ra cả cái cây mang chiếc lá này. Trong khu vườn rộng bao quanh ngôi nhà ở Carmel và kéo dài ra đến tận biển, bà bắt anh đi khám phá từng chi tiết của một thiên nhiên mà có những chỗ thì bà đã “khai hoá”, có những chỗ bà lại cố ý để hoang. Vào hai mùa được đánh dấu bằng màu xanh lá cây và màu hổ phách, bà bảo anh đọc thuộc tên những con chim bay đến nghỉ trên đỉnh những cây cù tùng trong cuộc hành trình dài của chúng.
Trong vườn rau mà Antoine chăm chút một cách thành kính, bà bảo Arthur hái những cây rau mọc lên như do có phép màu “chỉ hái những cây đã kịp lớn thôi”. Bên bờ biển, bà bảo anh đếm những con sóng thỉnh thoảng lại đến vuốt ve những mỏm đá, như để cố xin tha thứ cho sự dữ dội của chúng vào những mùa khác, “để nắm bắt được hơi thở của biển, áp lực của nó, tâm trạng của nó”. “Biển đưa mắt ta, đất đưa chân ta”, bà nói. Dựa vào mức độ của sự phối hợp giữa mây và gió, bà chỉ cho anh cách đoán thời tiết sắp đến, và hiếm khi bà nhầm. Arthur biết rõ từng khoảnh đất vườn nhà, anh có thể nhắm mắt lại mà đi trong đó, thậm chí đi giật lùi cũng được. Không có một góc nào đối với anh là xa lạ. Mỗi một cái hốc đều có một tên, và con vật nào muốn chọn đây làm nơi yên nghỉ mãi mãi thì cũng đều có mộ phần. Nhưng hơn tất cả, bà đã dạy anh biết yêu và biết tỉa hoa hồng. Vườn hoa hồng là một nơi giống như dấu ấn của phép màu. Hàng trăm mùi hương quyện lẫn vào nhau ở đó. Lili dẫn anh đến đây để kể cho anh nghe những câu chuyện trong đó lũ trẻ con thì mơ thành người lớn còn người lớn thì ước được trở lại tuổi thơ. Trong tất cả các loại hoa, đây là loài hoa mà anh yêu nhất.
Một buổi sáng đầu hè, mẹ bước vào phòng Arthur lúc trời mới rạng, ngồi xuống giường cạnh đầu cậu bé và vuốt ve những búp tóc xoăn của cậu.
- Dậy đi, Arthur của mẹ, dậy đi con, mẹ dẫn con đi.
Cậu bé túm lấy những ngón tay của mẹ, xiết chặt trong bàn tay nhỏ của cậu và quay người lại, áp má vào lòng bàn tay mẹ. Gương mặt cậu sáng lên một nụ cười biểu lộ rõ tình cảm trìu mến.
Bàn tay Lili có một mùi hương không bao giờ phai nhạt trong ký ức khứu giác của Arthur. Đó là sự kết hợp của nhiều loại tinh dầu hoa mà bà tự pha trộn khi ngồi bên bàn trang điểm của mình, và sáng nào bà cũng xoa lên cổ.
Đây là một trong những kỷ niệm gắn với ký ức về hương thơm.
- Nào đi thôi, con yêu của mẹ, chúng ta sẽ phải cahỵ đau với mặt trời. Xuống bếp tìm mẹ trong vòng năm phút nữa nhé.
Đứa trẻ mặc vào người một chiếc quần vải bông cũ, khoác một chiếc áo chui cổ rộng lên vai, vừa vươn vai vừa ngáp. Cậu mặc quần áo trong yên lặng, mẹ cậu đã dạy cậu biết kính trọng sự tĩnh mịch lúc bình minh, cậu đi đôi ủng cao su vì biết rõ hai mẹ con sẽ đi đâu sau khi ăn sáng. Khi đã sẵn sàng, cậu vào gian bếp rộng.
- Đừng làm ồn, Antoine hãy còn ngủ.
Mẹ đã dạy cậu biết thích cà phê, vị của nó và đặc biệt là mùi thơm của nó.
- Con dễ chịu chứ, Arthur của mẹ ?
- Vâng.
- Vậy thì con hãy mở to mắt và nhìn xung quanh con. Không nên để những kỷ niệm đẹp tàn phai đi. Con hãy thấu suốt những sắc màu và chất liệu. Đó sẽ là ngọn nguồn của thị hiếu của con và của những nỗi nhớ nhung khi nào con đã nên người.
- Nhưng con vẫn là người đấy chứ !
- Mẹ muốn nói là khi con thành người lớn.
- Trẻ con chúng con thì khác lắm hay sao ?
- Ừ ! Người lớn cũng có những nỗi lo âu mà trẻ con không biết đến, con muốn gọi đó là nỗi sợ cũng được.
- Mẹ sợ cái gì ?
Mẹ giải thích cho cậu là người lớn sợ đủ thứ, sợ già, sợ chết, sợ cai 1mà họ khôgn trải qua, sợ bệnh tật, đôi khi sợ cả cái nhìn của trẻ con, sợ bị phán xét.
- Con có biết tại sao mẹ con mình lại tâm đầu ý hợp đến thế không ? tại vì mẹ không nói dối con, tại vì mẹ nói với con như với một người lớn, tại vì mẹ không sợ. mẹ tin tưởng con. Những người lớn sợ là vì họ không biết tính đến những tình huống. Đó chính là điều mà mẹ đang dạy con. Chúng ta đang tận hưởng một khoảnh khắc dễ chịu được tạo nên bằng một loạt các chi tiết đa dạng : hai mẹ con ta, cái bàn này, cuộc trò chuyện của chúng ta, đôi tay mẹ mà con đang nhìn từ nãy đến giờ, mùi thơm trong căn phòng này, cái khung cảnh thân thuộc đối với con này, sự tĩnh lặng của ngày đang thức dậy.
Mẹ đứng lên, cầm bát đem đặt vào chiếc bồn rửa tráng men. Sau đó bà lấy một miếng bọt biển lau bàn, vun những vụn bánh mì vào lòng bàn tay mà bà đang giơ ra hứng. Gần cửa ra vào có một chiếc giỏ bằng rơm bện, bên trong đầy dây câu. Trong một mảnh vải cuộn tròn đặt phía trên có bánh mì, phó mát và xúc xích. Lili đeo giỏ vào cánh tay và đưa tay dắt Arthur.
- Đi thôi, con yêu của mẹ, khéo chúng mình muộn mất.
Cả hai đi xuống theo con đường dẫn đến bến cảng nhỏ.
- Con nhìn những chiếc thuyền nhỏ đủ các màu sắc kia xem, trông như một bó hoa trên biển ấy.
Như thường lệ, Arthur bước xuống nước, tháo cái thuyền con ra khỏi móc và kéo thuyền vào bờ. Lili đặt cái giỏ vào đó và bước lên thuyền.
- Nào chèo đi, con yêu của mẹ.
Chiếc thuyền nhỏ dần dần rời xa bờ theo nhịp chèo của cậu bé. Khi bờ biển vẫn còn hiện rõ, cậu cất những mái chèo vào trong thuyền. Lili lấy những dây câu ra khỏi giỏ và đã móc mồi vào lưỡi câu. Như thường lệ, mẹ chỉ chuẩn bị cho cậu những dây câu đầu tiên, những dây câu tiếp theo cậu phải tự móc lấy con giun bé đỏ hỏn cứ vặn vẹo trong những ngón tay cậu làm cho cậu rất kinh tởm. Cuộn dây câu được đặt kẹp giữa hai chân cậu ngay trên sàn thuyền, cậu cuốn sợi dây ni lông vào ngón tay trỏ và ném dây xuống nước, hòn chì nặng nhấn chìm sợi dây và kéo mạnh con mồi xuống đáy. nếu chọn được chỗ tốt, chẳng mấy chốc cậu sẽ kéo lên được một con cá.
Hai mẹ con ngồi đối diện, yên lặng đã vài phút, mẹ nhìn cậu một cách căng thẳng và hỏi cậu bằng một giọng khác thường : “Arthur, con biết là mẹ không biết bơi, nếu mẹ ngã xuống nước thì con sẽ làm gì ?” “Con sẽ nhảy xuống tìm mẹ”, đứa trẻ trả lời. Lili lập tức tỏ ra bực bội : “Sao con nói ngu ngốc thế !” Arthur sững người vì câu trả lời gay gắt.
- Phải cố chèo thuyền về đến đất liền, đó là điều mà con phải làm !
Lili kêu lên.
- Cuộc sống của con mới là cái quan trọng, đừng bao giờ quên điều đó, đừng bao giờ phạm sai lầm liều với món quà tặng duy nhất này cả, con hãy thề đi!
- Con thề với mẹ - cậu bé trả lời sợ sệt.
- Con thấy đấy,- bà nói, vẻ dịu lại – con sẽ phải để cho mẹ chìm thôi.
Khi ấy, cậu bé Arthur bật khóc. Lili lấy ngón tay trỏ gạt những giọt nước mắt của con trai.
- Đôi khi chúng ta bất lực trước những mong muốn, những ước vọng hay những khao khát bất chợt của mình, và điều đó gây ra sự day dứt nhiều lúc không chịu nổi. Tình cảm này sẽ đi theo suốt đời con, đôi khi con quên nó đi, đôi khi nó lại hiện ra như một sự ám ảnh. Một phần nghệ thuật sống phụ thuộc vào khả năng của chúng ta khắc phục sự bất lực của bản thân. Đó là một việc khó, bởi vì sự bất lực sinh ra nỗi sợ. Nó làm tiêu tan phản ứng của chúng ta, trí tuệ của chúng ta, lương tri của chúng ta, nó mở đường cho sự nhu nhược. Rồi con sẽ biết đến những nỗi sợ. Hãy đấu tranh chống lại chúng, nhưng đừng thay thế chúng bằng sự do dự quá lâu. Hãy suy nghĩ, quyết định và hành động ! Đừng có hoài nghi, khi người ta không có khả năng đảm nhận sự lựa chọn của chính mình, người ta thường sinh ra ít nhiều chán đời. Mỗi câu hỏi có thể trở thành một trò chơi, mỗi quyết định đưa ra có thể dạy con tự biết mình, tự hiểu mình.
Hãy khấy động thế giới, thế giới của con ! Hãy nhìn cái khung cảnh đang bày ra trước mắt con đây, con xem bờ biển được chạm trổ tinh vi biết bao, tưởng như đó là một mảnh đăng ten, con thấy mặt trời đang rọi xuống đó hàng nghìn tia sáng khác nhau. Mỗi cây rung rinh một kiểu khi được gió vuốt ve. Nhưng điều đẹp nhất mà trái đất cho chúng ta, điều làm chúng ta trở thành con người, đó là hạnh phúc được chia sẻ. Người không biết chia sẻ là người tàn phế trong những cảm xúc của mình. Con thấy đấy, Arthur, cái buổi sáng mà chúng ta ở bên nhau thế này rồi sẽ khắc sâu vào ký ức của con. Sau này, khi mẹ không còn nữa, con sẽ nhớ lại, và kỷ niệm này sẽ có đôi chút dư vị ngọt ngào, bởi vì mẹ con mình đã cùng nhau chia sẻ khoảnh khắc ấy. Nếu mẹ ngã xuống nước, con sẽ không nhảy xuống để cứu mẹ, làm như vậy là dại dột. Điều mà con sẽ làm, đó là đưa tay ra để giúp mẹ trèo lại lên thuyền, và nếu như con thất bại và mẹ bị chết đuối, con vẫn có lương tâm thanh thản. Con đã quyết định đúng là không liều mạng chết vô ích, nhưng con đã tìm đủ cách để cứu mẹ.
Trong khi cậu bé chèo thuyền vào bờ, người mẹ lấy tay ôm đầu cậu và dịu dàng hôn lên trán cậu.
- Mẹ làm con buồn phải không ?
- Vâng, mẹ sẽ không bao giờ chết đuối nếu có con ở đó. Và dù sao con vẫn sẽ lặn xuống nước, con đủ khoẻ để đưa mẹ lên.
Lili tắt nghỉ cũng thanh nhã như khi bà sống. Buổi sáng hôm bà mất, cậu bé lại bên giường mẹ :
- Tại sao?
Người đàn ông đứng bên giường không nói gì, ông ngước mắt lên nhìn đứa trẻ.
- Mẹ con cháu thân nhau đến thế, tại sao mẹ lại không từ biệt cháu ? Cháu thì cháu sẽ chẳng bao giờ làm như vậy đâu. Bác là người lớn, bác có biết tại sao không ? Bác nói cho cháu đi, cháu cần phải biết, tất cả mọi người đều luôn luôn nói dối trẻ con, người lớn cứ tưởng rằng trẻ con ngờ nghệch lắm! Còn bác, nếu bác là người dũng cảm, hãy nói cho cháu sự thật, tại sao mẹ lại ra đi như vậy trong khi cháu ngủ ?
Đôi khi cái nhìn của trẻ thơ kéo ta đi sâu vào những kỉ niệm của ta đến nỗi không thể không trả lời cho một câu hỏi đặt ra.
Antoine đặt tay lên vai cậu bé.
- Mẹ cháu không thể làm khác được, người ta không mời cái chết, nó tự đến. mẹ cháu thức dậy lúc nửa đêm, cơn đau rất dữ dội, mẹ cháu đã đợi mặt trời mọc, nhưng mặc dù rất muốn tỉnh táo, mẹ cháu vẫn từ từ thiếp đi.
- Vậy thì đó là lỗi của cháu, tại cháu ngủ.
- Không, tất nhiên là không phải vậy, cháu không nên nhìn sự việc như thế, cháu muốn biết lý do thực sự của việc mẹ cháu ra đi mà không từ biệt à ?
- Vâng
- Mẹ cháu là một phụ nữ quý phái, tất cả những người phụ nữ quý phái đều biết ra đi có phẩm cách, để lại những người mình yêu cho chính họ.
Nhìn thấu vào cặp mắt xúc động của người đàn ông, cậu bé ngờ vực một mối đồng cảm mà cho đến lúc bấy giờ cậu mới chỉ phỏng đoán. Cậu theo dõi dòng nước mắt chảy dài trên má ông, luồn vào bộ râu lởm chởm. Người đàn ông lấy mu bàn tay quệt ngang mi mắt.
- Cháu thấy bác khóc đấy- ông nói- cháu cũng nên làm như vậy, nước mắt làm cho nỗi buồn vợi bớt.
- Cháu sẽ khóc sau, nỗi buồn này còn gắn cháu với mẹ cháu, cháu còn muốn giữ nó lại. Mẹ là cả cuộc đời cháu.
- Không, cháu ơi, đời cháu là ở phía trước, không phải trong những kỉ niệm của cháu, đó chính là những điều mẹ cháu đã dạy cháu, hãy tôn trọng điều đó, Arthur, đừng bao giờ quên điều mà mới hôm qua mẹ còn nói với cháu : “Tất cả những ước mơ đều có giá của nó”. Với cái chết của mẹ cháu, cháu trả giá cho những ước mơ mà mẹ cháu đã cho cháu.
- Những ước mơ đó giá đắt quá, bác Antoine ơi, bác hãy để cháu một mình.
- Nhưng cháu đang một mình với mẹ cháu đó thôi. Cháu hãy nhắm mắt lại và quên đi sự có mặt của bác, sức mạnh của cảm xúc là ở đó. Cháu đang một mình với chính cháu, và từ nay sẽ bắt đầu một con đường dài.
- Mẹ cháu đẹp, có đúng không ? Trước cháu tưởng cái chết sẽ làm cháu sợ, nhưng bây giờ cháu thấy mẹ đẹp lắm.
Cậu cầm tay mẹ, những đường gân xanh nổi trên làn da thật mềm mại và trắng trẻo của bà dường như mô tả đường đời bà, dài, náo động, lắm sắc màu. Cậu kéo bàn tay mẹ lại gần khuôn mặt cậu và chậm rãi giụi má mình vào đó trước khi đặt một cái hôn vào lòng bàn tay mẹ.
Có cái hôn đàn ông nào có thể đọ được với ngần ấy tình yêu ?
- Con yêu mẹ,- cậu nói - con đã yêu mẹ với tình yêu của một đứa trẻ, giờ đây mẹ sẽ ở trong trái tim người lớn của con, cho đến tận ngày cuối cùng
- Arthur! – Antoine nói.
- Dạ.
- Có bức thư này mẹ cháu đã gửi lại cho cháu, bây giờ bác để cháu ở đây.
Còn lại một mình, Arthur ngửi phong bì và hít mùi hương thấm đượm trong đó, rồi cậu bóc thư.
Arthur của mẹ,
Khi con đọc bức thư này, mẹ biết rằng phần nào đó trong thâm tâm con, con sẽ rất giận mẹ vì đã chơi khăm con một vố. Arthur của mẹ, đây là bức thư cuối cùng của mẹ và cũng là di chúc tình yêu của mẹ.
Linh hồn mẹ bay đi, nó được nâng đỡ bằng tất cả những hạnh phúc mà con đã cho mẹ. Cuộc đời thật tuyệt diệu, Arthur, chỉ khi nó lặng lẽ bỏ đi người ta mới nhận ra điều đó, nhưng ngày nào cuộc đời cũng đều được hưởng thụ tuỳ theo lòng vui sống của ta.
Có những thời điểm, nó làm ta nghi ngờ tất cả, đừng bao giờ chịu khất phục, con yêu của mẹ. Từ ngày con ra đời, mẹ đã thấy trong mắt con một nguồn ánh sáng làm con thành một chú bé khác xa những đứa trẻ khác. Mẹ đã thấy con ngã và mím môi đứng dậy khi mà những đứa bé khác đều có thể khóc. Lòng dũng cảm này là sức mạnh của con nhưng cũng là chỗ yếu của con. Hãy coi chừng điều đó, những cảm xúc cần phải được chia sẻ, sức mạnh và lòng dũng cảm giống như hai cây gậy có thể quay ra chống lại người nào sử dụng chúng tồi. Người lớn cũng cần được khóc, Arthur ạ, người lớn cũng có những nỗi buồn.
Kể từ nay, mẹ không còn ở đây nữa, để trả lời những câu hỏi trẻ thơ của con, đó là vì đã đến lúc để con trở thành người lớn.
Trong cuộc du hành đang chờ đợi con này, đừng bao giờ để mất tâm hồn trẻ thơ của con, đừng bao giờ quên những ước mơ của con, đó sẽ là động cơ của đời con, đó là những hương vị sẽ làm nên ban mai của con. Rồi con sẽ biết đến một thứ tình yêu khác so với tình yêu mà con dành cho mẹ, khi ngày ấy đến, hãy chia sẻ nó với người con gái sẽ yêu con ; những ước mơ chung của cả hai người sẽ làm nên những kỷ niệm đẹp nhất. Sự cô đơn là một khu vườn ở đó tâm hồn khô héo đi, những bông hoa mọc lên nơi ấy sẽ không có hương thơm.
Tình yêu có một hương vị tuyệt vời, con hãy nhớ là cần phải biết cho để được nhận ; con hãy nhớ rằng cần phải là chính mình để có thể yêu. Con của mẹ, hãy nghe theo bản năng con, hãy trung thành với lương tâm và tình cảm của con, hãy sống cuộc đời mình, con chỉ có một cuộc đời mà thôi. Kể từ nay con sẽ phải chịu trách nhiệm về chính con và về những người mà con sẽ yêu. hãy sống có phẩm cách, hãy yêu, đừng để mất đi cái nhìn đã từng làm mẹ con mình gần gũi nhau đến thế khi chúng ta cùng nhau tận hưởng buổi bình minh. Con hãy nhớ đến những buổi mẹ con mình cùng nhau tỉa hoa hồng , ngắm trăng, tìm hiểu hương thơm các loại hoa, lắng nghe những tiếng động quanh nhà để hiểu nó. Đó là những điều thật giản đơn, đôi khi không hợp mốt, nhưng đừng để cho những kẻ cau có chán chường làm hỏng mất đi những khoảnh khắc màu nhiệm này đối với những người biết thưởng thức. Những khoảnh khắc ấy có một cái tên, Arthur ạ, đó là “đam mê cái đẹp”, và hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào con thôi mà đời con có được đam mê cái đẹp hay không. Đó là điều thú vị nhất của cuộc hành trình dài đang đợi con.
Chú bé của mẹ, mẹ tạm biệt con nhé, con hãy bám chắc vào mảnh đất đẹp đến nhường này. Mẹ yêu con, con đã là lẽ sống của mẹ, mẹ cũng biết con yêu mẹ đến thế nào, mẹ ra đi trong lòng thanh thản, mẹ tự hào về con.
Mẹ của con.
Cậu bé gập bức thư lại và đặt vào trong túi. Cậu hôn lên vầng trán giá lạnh của mẹ mình. Cậu đi dọc theo giá sách, lấy ngón tay vuốt lên những bìa sách. “ Một nguời mẹ chết là một tủ sách bị cháy”, mẹ cậu đã từng nói. Cậu đi ra khỏi căn phòng, bước đi dứt khoát, như mẹ đã dạy cậu : “ Khi đã ra đi không bao giờ nên quay trở lại”
Arthur ra vườn, sương sớm rớt xuống mát dịu, cậu bé đi đến bên những cây hoa hồng và quỳ xuống.
- Mẹ đã đi hẳn rồi, mẹ sẽ chẳng còn đến tỉa cành cho các bạn nữa, giá mà các bạn biết,- cậu nói – giá mà các bạn hiểu được, tôi có cảm giác là hai cánh tay tôi trở nên nặng quá chừng.
Làn gió làm cho những bông hoa rung rinh cánh như trả lời; khi ấy và chỉ đến khi ấy, cậu bé mới để cho nước mắt mình tuôn trào ra trong vườn hoa hồng. Từ phía nhà, đứng dưới cổng, Antoine nhìn cảnh đó.
- Ôi, Lili, em ra đi quá sớm đối với nó,- ông thì thầm- vô cùng quá sớm. Từ nay Arthur thành đơn độc, có ai ngoài em biết cách đi vào thế giới của nó đâu ? Nếu em có một chút quyền lực nào từ nơi mà hiện em đang ở, hãy mở cho nó cánh cửa vào thế giới của chúng ta.
Ở cuối vườn, một con quạ ra sức kêu quang quác.
- Ồ không, lili, không nên thế,- Antoine nói – anh không phải là bố của Arthur.
Đó là ngày dài nhất mà Arthur từng biết; đến khuya, ngồi dưới cổng nhà, cậu vẫn còn tôn trọng sự yên lặng của khoảnh khắc nặng nề này.
Antoine ngồi bên cậu bé, nhưng không người nào nói cả. Mỗi người đều lắng nghe những âm thanh của đêm, chìm đắm vào ký ức của những bức tường này. Dần dần trong đầu cậu bé, những nốt nhạc của một giai điệu cho đến giờ không được biết đến bắt đầu nhảy múa, nốt móc làm tan đi các từ, nốt trắng – các trạng từ, nốt đen – các động từ, và dấu lặng - tất cả các câu đã trở nên vô nghĩa.
- Bác Antoine !
- Ừ, Arthur.
- Mẹ cháu đã cho cháu điệu nhạc của mẹ.
Rồi cậu bé ngủ thiếp đi trong vòng tay của Antoine.
Antoine cứ ngồi như vậy, bất động, ôm Arthur trong tay, trong nhiều phút dài, vì sợ làm cậu thức giấc. Khi ông tin chắc là cậu bé đã ngủ say, ông bế cậu lên và trở vào nhà. Lili mới ra đi mới có mấy tiếng đồng hồ, mà không khí đã đổi khác. Một âm vang khó tả, một vài mùi hương, một vài màu sắc dường như đang nhoà dần để rồi biến hẳn.
“Phải khắc sâu vào trí nhớ, lưu giữ những khoảnh khắc này”, Antoine lẩm bẩm khi đi lên cầu thang. Vào đến phòng của Arthur, ông đặt cậu bé xuống giường cậu và lấy một cái chăn đắp lên cậu, cứ để cậu mặc nguyên quần áo. Antoine xoa đầu cậu bé, và rón rén đi ra...
Trước khi ra đi, Lili đã dự phòng tất cả. Vài tuần sau khi bà mất, Antoine đóng cửa ngôi nhà to và chỉ để mở hai phòng tầng dưới nơi ông dọn đến sống quãng đời còn lại của mình. Ông chở Arthur ra ga, đến cánh cửa của con tàu sẽ đưa cậu đến trường nội trú của cậu. Arthur lớn lên một mình ở đó. Trường nội trú là một nơi dễ chịu, những giáo viên đáng kính, đôi khi đáng yêu. Lili chắc chắn đã chọn nơi tốt nhất cho cậu. Bề ngoài không một cái gì trong khung cảnh này là buồn tẻ cả. Nhưng Arthur bước vào đó mang theo những kỷ niệm mà mẹ cậu để lại và nó choán đầy đầu óc cậu cho đến từng ngóc ngách nhỏ nhất. Cậu đã học được cách bình thản trước mọi điều. Từ những giáo lý của Lili, cậu tạo ra những thái độ, những cử chỉ, những lý lẽ theo một logic luôn luôn chặt chẽ. Arthur là một đứa trẻ thanh thản, cậu thiếu niên tiếp theo vừa giữ nguyên tính cách ấy vừa phát triển một óc quan sát đặc biêt. Chàng thanh niên mà cậu trở thành dường như không bao giờ biểu lộ tâm trạng của mình. Cậu là một học trò bình thường, chẳng phải xuất chúng cũng không kém cỏi, điểm số của cậu bao giờ cũng ở quãng trên trung bình một chút trừ môn lịch sử là cậu học xuất sắc, và cậu lặng lẽ vượt qua từng năm học một cho đến tận kỳ thi tú tài mà cậu đạt được mảnh bằng nhưng không được xếp hạng cao. Khi những năm học này kết thúc, cậu được bà hiệu trưởng của trường mời lên gặp, một buổi tối tháng sáu. Bà giải thích cho cậu rằng mẹ cậu, khi biết là mình mắc phải căn bệnh mà sẽ chỉ có được một ít thời gian tạm nghỉ trước khi ra đi vĩnh viễn, đã đến gặp bà hiệu trưởng hai năm trước lúc qua đời. Mẹ cậu đã dành hàng giờ để giải quyết những chi tiết liên quan đến việc học tập của cậu. Tiền học cho Arthur được trả trước cho đến tận khi cậu đã quá tuổi thành niên. Trước khi ra đi , mẹ cậu đã gửi gắm cho bà Senard, bà hiệu trưởng, nhiều thứ. Những chiếc chìa khoá, của ngôi nhà ở Carmel, nơi cậu đã lớn lên, và của một căn hộ nhỏ trong thành phố. Căn hộ đã được cho thuê cho đến tận tháng vừa rồi, nhưng đã được trả vào ngày cậu đến tuổi thành niên, đúng như chỉ dẫn. Tiền cho thuê nhà được gửi vào một tài khoản mang tên cậu, cùng với số tiền tiết kiệm mà mẹ cậu đã để lại cho cậu. Một khoản kha khá cho phép cậu học tiếp đại học và thậm chí hơn thế nữa.
Arthur cầm lấy chùm chìa khoá mà bà Senard đặt trên bàn. Cái móc chìa khoá là một quả cầu bằng bạc có một đường khe ở giữa, và được gắn một cái móc bấm tí xíu. Arthur bẩy cái van nhỏ, và quả cầu tách ra, để lộ hai bức ảnh nhỏ ở hai bên. Một bức ảnh là cậu khi bảy tuổi, bức kia là ảnh của Lili. Arthur khép cái móc chìa khoá lại một cách thận trọng.
- Em định học ngành gì ở đại học ? – bà giáo hỏi.
- Kiến trúc, em muốn trở thành kiến trúc sư.
- Em không đi Carmel, về lại ngôi nhà ấy à ?
- Không ạ, em chưa đi, cũng còn phải lâu nữa.
- Tại sao ?
- Mẹ em biết tại sao, đó là một bí mật.
Bà hiệu trưởng đứng dậy và mời cậu đứng lên theo. Khi họ đến gần cánh cửa phòng làm việc của bà, bà vòng tay ôm Arthur và xiết chặt. Bà nhét một chiếc phong bì vào bàn tay Arthur rồi gập những ngón tay cậu lại.
- Của mẹ em đấy,- bà nói nhỏ vào tai cậu – đó là cho em, mẹ em yêu cầu cô trao thư này cho em vào đúng thời điểm này.
Bà giáo vừa mở hai cánh cửa phòng thì Arthur bước ra luôn, mất hút trong hành lang, không quay đầu lại, một tay nắm chặt những chiếc chìa khoá dài và nặng, tay kia cầm bức thư. Cậu rẽ sang chiếc cầu thang to, bà giáo bèn khép lại hai cánh cửa phòng làm việc của bà.
còn tiếp...